Suy dinh dưỡng là một bệnh lý thường gặp ở trẻ em nhất là trẻ dưới 5 tuổi, suy dinh dưỡng trẻ em để lại hậu quả rất nặng nề không những cho cá nhân gia đình mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.Khái niệm.
Suy
dinh dưỡng là gì? Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể không được cung cấp đầy
đủ năng lượng và protein cũng như các yếu tố vi lượng khác để đảm bảo cho cơ
thể phát triển. SDD làm ảnh hưởng tới sự phát triển thể chất, tinh thần và vận
động của trẻ.
2.
Nguyên nhân
-
Do dinh dưỡng: nuôi trẻ không đúng phương pháp khi mẹ thiếu hoăc mất sữa cho
trẻ ăn bổ sung không đúng cả về số lượng và chất lượng, nguyên nhân quan trọng
nhất hay gặp là do bà mẹ thiếu kiến thức dinh dưỡng hoặc không có thời gian
chăm sóc con cái.
-
Do ốm đau kéo dài: trẻ mắc bệnh nhiểm khuẩn đường hô hấp, tiêu hóa nhiều lần,
biến chứng sau các bệnh viêm phổi, sởi, lị…
-
Do điều kiện kinh tế xã hội.
3.
Những trẻ có nguy cơ dễ bị suy dinh dưỡng.
-
Trẻ từ 6-18 tháng tuổi có nguy cơ suy dinh dưỡng cao nhất vì lứa tuổi này bắt
đầu ăn bổ sung và giảm dần bú mẹ.
-
Trẻ sinh ra nhẹ cân cân (dưới 2500g).
-
Trẻ không được bú sửa mẹ trong năm đầu.
-
Trẻ thường xuyên bị mắc bệnh nhiểm khuẩn, tiêu chảy, viêm phổi.
-
Trẻ đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai, các dị tật sứt môi, hở hàm ếch, tim bẩm
sinh, có nguy cơ bị SDD.
-
Trẻ sống trong gia đình đông con, kinh tế khó khăn. Trẻ không được ăn đúng và
đủ theo lứa tuổi:
4. Hậu quả
của SDD là:
-
Tăng nguy cơ mắc bệnh: nhiểm trùng hô hấp, tiêu chảy….SDD là điều kiện thuận
lợi để các bệnh này xẩy ra và kéo dài, mắc bệnh làm cho trẻ ăn uống kém, nhu
cầu năng lượng gia tăng, vì vậy suy dinh dưỡng ngày càng trở nên nặng nề hơn.
-
Chậm phát triển thể chất: ảnh hưởng đến tầm vóc của trẻ. Nếu tình trạng SDD kéo
dài đến thời gian dậy thì, chiều cao của trẻ càng bị ảnh hưởng trầm trong hơn.
Chiều cao của trẻ được quy định bởi di truyền, nhưng dinh dưỡng chính là điều
kiện cần thiêt để trẻ đại tối đa tiềm năng di truyền của mình.
-
Chậm phát triển tâm thần: trẻ suy dinh dưỡng thường là thiếu nhiều chất, trong
đó có những chất rất cần thiết cho sự phát triển não và trí tuệ của trẻ. Trẻ bị
SDD thường bị chậm chạp, lờ đờ, vì vậy giao tiếp xã hôi thường kém, kéo theo
giảm khả năng tiếp thu trong học tâp, giảm khả năng tiếp thu trong học tâp.
5. Xử lý khi
trẻ bị suy dinh dưỡng
-
Phòng chống thiếu vi chất bằng sử dụng các thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng
sẵn có tại địa phương.
-
Chế độ ăn cân đối, hợp lý phối hợp nhiều loại thực phẩm , nên chia nhỏ bữa để
trẻ ăn được nhiều hơn và chế biến mềm nhừ để dễ hấp thu. Với những trẻ bị duy
dinh dưỡng vì bữa chính trẻ không ăn hết suất nên tăng thêm bữa phụ cho đến khi
cân nặng của trẻ trở về bình thường . Theo dõi tình hình trẻ ăn ở trường nếu
ngày nào trẻ ăn không tốt cần trao đổi với cha mẹ trẻ vào cuối ngày để cha mẹ
trẻ tăng cường bữa ăn ở nhà .Tăng năng lượng của bữa ăn cho trẻ bị SDD hoặc có
nguy cơ bị SDD.Thường xuyên trao đổi với cha mẹ trẻ về tình trạng dinh dưỡng
của trẻ,cách chế biến bữa ăn ở nhà để trẻ có chế độ dinh dưỡng tốt nhất cả ở
nhà và ở trường. Khi bị nhiểm trùng hoặc tiêu chảy phải điều trị và quan tâm
chăm sóc dinh dưỡng trong và sau thời gian mắc bệnh. Nếu trẻ đang bú mẹ, phải
tiếp tục cho bú, chế biến thức ăn mềm, dễ tiêu hóa, cho trẻ ăn nhiều lần cho
đến khi hồi phục trở về bình thường.
6.
Phòng chống suy dinh dưỡng
-
Vận động nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý. Xây dựng thưc đơn hợp lý,
đối với những nơi trẻ SDD nhiều tăng chất béo tối đa theo nhu cầu khuyến nghị.
-
Theo dõi trẻ qua chấm biểu đồ tăng trưởng. Đối với trẻ dưới 24 tháng theo dõi
cân đo mỗi tháng một lần, trẻ từ 24 tháng trở lên 3 tháng/lần.
-
Bữa ăn phải cân đối giữa năng lượng ăn vào và năng lượng tiêu hao: Một khẩu
phần ăn cân đối sẽ giúp cho cơ thể có đủ năng lượng và các chất dinh dưỡng cần
thiết cho sự phát triển, duy trì sự sống và làm việc, vui chơi giải trí. Nếu ăn
nhiều mà không hoạt động dẫn đến thừa năng lượng thì sẽ gây béo phì, nếu để trẻ
đói, ăn không đủ chất, đủ lượng , trẻ sẽ mệt mỏi, kém hoạt động và dẫn đến bị
suy dinh dưỡng. Bữa ăn phải điều độ theo yêu cầu dinh dưỡng : Phấn đấu
bữa ǎn nào cũng có đủ 4 món cân đối.
Ngoài cơm (cung cấp nǎng lượng), cần có đủ 3 món nữa là: rau quả (cung cấp vitamin, chất khoáng và chất xơ); đậu phụ, vừng lạc, cá, thịt, trứng (cung cấp chất đạm, béo) và canh cung cấp nước và các chất dinh dưỡng bổ sung , luân phiên thay đổi món ăn giúp trẻ ngon miệng, chǎm sóc về tâm lý, tình cảm và chǎm sóc về vệ sinh vấn đề chủ quan của phần đông người lớn.
-
Dùng nguồn nước sạch, tẩy giun theo định kỳ, rửa tay trước khi ǎn và sau khi đi đại tiểu tiện. Đảm bảo vệ sinh thực phẩm, thức ǎn không là nguồn gây bệnh.
*Lưu
ý:
Không
cai sữa con khi trời đang nóng hoặc quá lạnh, khi trẻ đang ốm và lưu ý giai
đoạn chuyển ăn bột sang ăn cháo, từ cháo sang cơm trẻ chưa thích nghi kịp. Khi
thay dổi môi trường sốngnhư bắt đầu đi học ở nhà trẻ trẻ chưa thích nghi kịp
thời nên có phản ứng ăn kém ngủ kém dễ sút cân .
-
Tuyên truyền cho phụ huynh tiêm phòng tiêm chủng đầy đủ trẻ 6- 36 tháng uống
vitamin A định kỳ
-
Vệ sinh an toàn thực phẩm tránh nhiểm trùng đường ruột giun sán. Thực hiện mười
nguyên tắc vàng về vệ sinh an toàn thực phẩm và 5 chìa khóa cho an toàn thực
phẩm
II.
Phòng chống thừa cân, béo phì.
1.Khái
niệm: Thừa
cân, béo phì là tình trạng cân nặng vượt quá quy định, tích lũy mỡ không bình
thường một cách cục bộ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
2.
Các yếu tố nguy cơ gây béo phì
-
Thói quen trong ăn uống: phổ biến nhất là tình trạng năng lượng khẩu phần vượt
quá nhu cầu, nhất là năng lượng do chất béo và bột, đường cung cấp. Trẻ được
nuôi bằng sữa bò có nguy cơ thừa cân, béo phì cao hơn trẻ bú mẹ.
-
Giảm hoạt động thể lực cũng là yếu tố nguy cơ cao của thừa cân, béo phì. Hiện
có nhiều trẻ không tham gia thể dục thể thao, ít đi bộ, đi xe đạp... mà dành
nhiều thời gian cho hoạt động tĩnh tại như xem vô tuyến, chơi điện tử.
-
Ngủ ít: cũng gây béo vì làm giảm tiêu mỡ (quá trình này diễn ra mạnh nhất vào
ban đêm - Yếu tố gia đình, di truyền:Tuy chưa chứng minh được đầy đủ vai
trò của di truyền đối với chứng thừa cân, béo phì nhưng thực tế cho thấy, nguy
cơ này sẽ tăng lên ở những đứa trẻ có cha hoặc mẹ nặng cân, đặc biệt là khi cả
cha mẹ đều béo, đột biến đơn gen, tác động đa gen.
-
Yếu tố kinh tế xã hội:
-
Bệnh nội tiết
-
Do tác dụng phụ của thuốc.
3.
Hậu quả của thừa cân, béo phì
-
Những trẻ thừ cân, béo phì sẽ ngừng tăng trưởng sớm. Trước dậy thì, chúng
thường cao hơn so với tuổi nhưng khi dậy thì, chiều cao ngừng phát triển và trẻ
có xu hướng thấp hơn so với bạn bè.
-
Ngoài ra, thừa cân, béo phì cũng làm tăng nguy cơ bệnh tật: tim mạch, tăng
huyết áp, tiểu đường, sỏi mật, viêm khớp... và tử vong. Mắc các bệnh về da, do
cọ xát giữa quần ao với da khi vận động. Mắc các bệnh về hô hấp; về tim mạch;
đường tiêu hóa; về nội tiết và chuyển hóa.
-
Hậu quả về xã hội của béo phì, gây ảnh hưởng đến tâm lý ở trẻ em.
4.
Xử lý thừa cân, béo phì
Cần
theo dõi tình trạng dinh dưỡng của trẻ em. Cách xử trí béo phì trẻ em khác với
người trưởng thành là không bắt trẻ giảm ăn, vẫn phải cho trẻ ăn đầy đủ các
chất dinh dưỡng để bảo đảm sự phát triển của đứa trẻ, đặc biệt là các vitamin
và vi chất dinh dưỡng như can-xi, kẽm…Nhưng chế độ ăn cần tăng các loại rau củ
và giảm tinh bột, đường và chất béo.
5.
Phòng chống thừa cân béo phì
Để
dự phòng thừa cân và béo phì, cần chăm sóc tốt cho trẻ:
-
Chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý: Ngay từ trong bào thai để tránh thiếu hoặc
thừa dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh. Cho bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, chỉ cai
sữa sau 2 năm. Nếu phải nuôi bằng sữa bột, không nên sử dụng thêm đường hay
tinh bột. Khi trẻ ăn dặm, thức ăn phải được bổ sung vi chất dinh dưỡng cần
thiết để giúp tăng trưởng tối đa. Về ăn uống, cần đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng để
trẻ phát triển bình thường; khuyến khích ăn rau và hoa quả.
Đối
với trẻ lớn và trẻ vị thành niên, cần tăng cường hoạt động thể lực với các loại
hình và mức độ thích hợp theo từng lứa tuổi. Sinh hoạt điều độ, hạn chế xem vô
tuyến, chơi điện tử hoặc thức quá khuya.
-
Chương trình bữa ăn học đường: Trường mầm non tổ chức ăn bán trú cần lưu ý xây
dựng thực đơn hợp lý.
-
Tập cho trẻ thói quen đi ngủ sớm trước 9h tối.
-
Theo dõi tăng trưởng:
-
Tuyên tuyền, tư vấn cho phụ huynh học sinh: Cha mẹ cần phối hợp với nhà trường
để phát hiện sớm thừa cân, béo phì để xử trí kịp thời. Chế biến khẩu phần ăn
của trẻ cần cân đối, hợp lý, nên phối hợp nhiều loại thức ăn. Nếu uống sữa nên
uống không đường, trẻ lớn nên uống sữa gầy (sữa bột tách bơ). Không nên uống
sữa đặc có đường. Chế biến thức ăn: Hạn chế các món rán, xào, nên làm các món
luộc, hấp, kho. Nên nhai kỹ và ăn chậm, ăn đều đặn, không bỏ bữa, không để trẻ
quá đói, vì nếu bị quá đói, trẻ ăn nhiều trong các bữa sau làm mỡ tích luỹ
nhanh hơn. Nên ăn nhiều vào bữa sáng để tránh ăn vặt ở trường, giảm ăn về chiều
và tối. Nên ăn nhiều rau xanh, quả ít ngọt. Giảm bớt gạo thay bằng khoai, ngô
là những thức ăn cơ bản giàu chất xơ . Trẻ ăn uống hoạt động tích cực để phòng
thừa cân, béo phì. Hạn chế tối đa cho trẻ uống các loại nước ngọt có ga. Cho
trẻ ăn ít các loại bánh kẹo, đường mật, kem, sữa đặc có đường. Không nên cho
trẻ ăn vào lúc tối trước khi đi ngủ.
So
với phương pháp hạn chế chế độ ăn, tăng cường hoạt động thể lực sẽ có hiệu quả
hơn, giúp trẻ phát triển chiều cao và duy trì sức khoẻ tốt. Trẻ tăng cường vận
động để phát triển cân đối, không bì thừa cân, béo phì.
Vì
tương lai trẻ em, vì chất lượng giống nòi, vì hạnh phúc của gia đình và xã
hội chúng tôi mong rằng toàn thể các phụ huynh, giáo viên hãy cùng
nhau thực hiện tốt phòng chống suy dinh dưỡng và thừa cân, béo phì ở trẻ
em.