Lịch sử, ý nghĩa ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4
Cách đây 45 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ đây tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chiến thắng ngày 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Quân và dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
Vào cuối năm 1974 - đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh
lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm
1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và
chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải
phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần
tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân
dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của
chiến tranh. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến
dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “thời cơ chiến lược đã đến, ta
có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết
định: “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải
phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định
được Bộ Chính trị quyết định mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh”. Trước khi tấn
công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là
những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.
Vào lúc 17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch,
năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm
Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe
tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn,
Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân
ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên
Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược
của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng
minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại
xâm. Chiến thắng đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ
phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất
đất nước, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên
CNXH. Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử
chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi tự
hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông ta đã
chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Chúng ta càng tự
hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản
Việt Nam, vào tinh thần quật cường bất khuất và trí thông minh, sáng tạo của
dân tộc ta, của quân đội ta. Mỗi người dân Việt Nam nguyện tiếp tục phát huy
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn
kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế
- xã hội, quốc phòng - an ninh theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra.

Lịch sử, ý nghĩa ngày Quốc tế Lao động 1/5
Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn
thời gian lao động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội lần
thứ nhất của Quốc tế Cộng sản I họp tại Gieneve (Thụy Sĩ) tháng 9/1866, vấn đề
đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ quan trọng. Khẩu hiệu
ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số nơi của nước Anh, nước có nền công
nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các nước khác.
Do sự kiện giới công nhân viên chức Anh di cư sang Mỹ, phong
trào đòi làm việc 8 giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827, đi đôi với nó là
sự nảy nở và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc
phải thông qua đạo luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp
thuộc Chính phủ. Nhưng các xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12
giờ.
Năm 1884, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội
Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: "...Từ ngày 1/5/1886,
ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ". Sở dĩ ngày 1/5 được
chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp
ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có
thể biết trước quyết định của công nhân mà không kiếm cớ chối từ.
Ngày 1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một
cách đầy đủ, giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp
lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại
thành phố Chicago. Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức
mit-tinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào
làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8
giờ vui chơi!” Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cũng ngày
hôm đó, tại các trung tâm công nghiệp khác trên nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi
công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở Washington, New York, Baltimore,
Boston... hơn 125.000 công nhân giành được quyền ngày chỉ làm 8 giờ.
Những cuộc biểu tình tại Chicago diễn ra ngày càng
quyết liệt. Giới chủ đuổi những công nhân bãi công, thuê người làm ở các thành
phố khác, thuê bọn khiêu khích và cảnh sát đàn áp, phá hoại cuộc đấu tranh của
công nhân. Các xung đột xảy ra dữ dội khiến hàng trăm công nhân chết và bị
thương, nhiều thủ lĩnh công đoàn bị bắt... Báo cáo của Liên đoàn Lao động Mỹ
xác nhận: "Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ lại có một cuộc nổi dậy mạnh
mẽ, toàn diện trong quần chúng công nghiệp đến như vậy".
Ngày 20/6/1889, ba năm sau "thảm kịch" tại thành
phố Chicago, Quốc tế cộng sản lần II nhóm họp tại Paris (Pháp). Dưới sự
lãnh đạo của Frederic Engels, Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản II đã
quyết định lấy ngày 1/5 hàng năm làm ngày biểu dương lực lượng và đấu tranh chung
của tầng lớp vô sản các nước.
Từ đó, ngày 1/5 trở thành Ngày Quốc tế Lao động, ngày đấu tranh
của giai cấp công nhân, ngày nghỉ ngơi và biểu dương lực lượng, ngày hội của
công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
Năm 1920, được sự phê chuẩn của Lê Nin, Liên Xô (cũ) là nước đầu
tiên cho phép người dân được nghỉ làm vào ngày Quốc tế Lao động 1/5. Sáng kiến
này dần dần được nhiều nước khác trên thế giới tán thành.
Tại Việt Nam, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930),
giai cấp công nhân Việt Nam đã lấy ngày l/5 hàng năm làm ngày đỉnh cao của
phong trào đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập - tự do - dân chủ,
giành những quyền lợi kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng
Tám, việc kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng
hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân
Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế Lao động lần đầu tiên được tổ
chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đặc
biệt, ngày 1/5/1938, một cuộc biểu tình lớn gồm hàng chục ngàn người đã diễn ra
ở khu Đấu xảo Hà Nội với sự tham gia của 25 ngành, giới: thợ hoả xa, thợ in,
nông dân, phụ nữ, người cao tuổi, nhà văn, nhà báo... Đây là cuộc mit-tinh lớn
nhất trong thời kỳ vận động dân chủ (1936 - 1939), một cuộc biểu dương sức mạnh
đoàn kết của nhân dân lao động do Đảng lãnh đạo. Nó đánh dấu một bước trưởng
thành vượt bậc về nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo của Đảng ta.
Ngày nay, ngày Quốc tế Lao động đã trở thành ngày hội lớn của
hai giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đây cũng là ngày
biểu thị tình đoàn kết hữu nghị với giai cấp công nhân và nhân dân lao động
toàn thế giới, cùng đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, tự do, dân chủ và
tiến bộ xã hội.